Lật lại trong mỗi trang kí ức của mình, tôi bỗng thấy lại những ngày đã qua, rõ lắm, như mới chỉ vừa hôm qua thôi… Ngăn kéo đầu tiên là hình ảnh một nhóc con với tóc hớt mái cua, quần sooc, áo pull ngồi trên chiếc xe cup của ba. Tôi ngày ấy đích thị là một-thằng-nhóc chứ chẳng phải một-nữ-sinh như bây giờ. Tôi nghịch ngợm, chơi đủ các trò của bọn con trai, từ thả diều đến câu cá, bắn bi... tất cả đều không thể thiếu mặt tôi. Ngày tết cũng chẳng váy, chẳng thắt bím mà chỉ sooc với áo pull, nên chẳng lạ gì khi người ta cứ nhầm tôi là con trai. Tết lại ngồi một bên trên xe ông ngoại mà đi thăm họ hàng.
Ngăn kéo thứ hai là lúc tôi đã vào tiểu học, kí ức còn rõ nhất trong tôi là tờ giấy Khai bút đầu tiên mà ông tôi dạy. Năm nào cũng viết những câu mà tôi đã thuộc nằm lòng, lúc nào cũng mở đầu bằng: “Minh niên khai thần bút …”. Tôi không thắc mắc vì sao ông tôi cứ bắt tôi năm nào cũng viết, bởi với ý nghĩ của một đứa trẻ lúc ấy, mùng 1 tết chẳng nên hỏi quá nhiều hay làm ai phật lòng, như thế cả nhà sẽ không vui. Trong cái không khí ấm áp của hương trầm, màu vàng tươi của hoa mai cùng màu đỏ của giấy điều, tôi cứ thế cắm cúi viết, bên cạnh là ông ngoại nhìn theo từng nét chữ non nớt của đứa cháu gái.
Cuối ngăn kéo thứ ba đã không còn ông ngoại bên tôi nữa. Năm tôi học lớp 8, tôi không thể ngờ đó lại là cái tết cuối cùng tôi đón cùng ông. Ông tôi qua đời vào đúng Tết Nguyên tiêu. Từ khi bắt đầu có ý thức, không thể phủ nhận rằng tôi có rất ít cảm tình với ông ngoại, vì ông hay trách móc mỗi khi chúng tôi làm việc gì đó không đúng. Trong miền kí ức của mình, ông ngoại tôi là một người rất khó tính, vậy nên tôi hạn chế việc nói chuyện với ông ngoại đến mức thấp nhất . Nhưng tôi không thể ngờ đó lại là cái tết cuối cùng tôi ngồi bên ông viết khai bút.
Mãi đến lúc ông ngoại mất, tôi mới phát hiện ra rằng lúc bé, người duy nhất đặt tôi lên cổ cõng đi khắp xóm là ông ngoại, người vẫn chở tôi đến lớp mẫu giáo làng xa tít là ông ngoại, dù cho đường có ngập lún đến bắp chân thì ông vẫn cõng tôi đến lớp, không để tôi mất bài, người hay nói đỡ cho tôi mỗi khi bị ba phạt cũng là ông ngoại. Rồi cũng chính ông ngoại là người duy nhất trong dòng họ đưa cháu ngoại-mà lại là cháu gái- đi viếng mộ ông bà… rất nhiều, rất nhiều những cái duy nhất nữa mà tôi không sao nói nên lời. Chỉ biết, khi con người ta mất đi một cái gì, họ mới biết nó thực sự quý giá đến nhường nào. Tình cảm của ông ngoại chính là một trong những thứ quý giá nhất mà tôi đã mất đi.
Những cái tết tiếp theo cũng vẫn cứ vương vấn với tiết trời se lạnh, với mưa phùn lất phất bay, tôi vẫn viết khai bút sáng mồng 1 tết, nhưng không còn ai ngồi bên nhắc nhở từng câu chữ mà tôi đã thuộc lòng, không còn ông ngoại khấn thần Bút để đứa cháu được khai bút đầu năm. Bà thay ông làm việc đó, nhưng giọng bà nhẹ nhàng hiền dịu không thể thay thế được giọng ông trầm ấm, mạnh mẽ đã phủ hết một vùng kí ức trong tôi…
Mồng 1 tết tôi lại theo gia đình ra viếng mộ ông. Nơi ông nằm đó chính là chỗ mà ông đã chọn sẵn cho mình lúc còn sống. Tôi thực không thể hiểu nổi lí do vì sao một người khoẻ mạnh như ông lại lo đến lúc chết như vậy, tôi lại càng không thể nào lí giải được về sự ra đi đột ngột của ông ngoại. Nước mắt bà ngoại đã rơi khá nhiều khi cậu tôi mất, đến lúc ông ngoại mất, bà ngoại cũng khóc nhiều, cả bà, dì và mẹ đều lả đi vì không còn sức nữa… Mỗi lần ra đây bà lại khấn ông phù hộ cho cả gia đình, lại nghĩ ngợi rồi bà lại khóc, tôi nghe sống mũi mình cay cay, vì khói hương, vì nhớ ông, vì thương bà nghĩ ngợi quá nhiều.
Tết này nữa là 6 năm, thời gian qua nhanh, nước mắt cũng vơi dần, nhưng nỗi nhớ người đã mất vẫn còn đó. Nước mắt lại thi nhau rơi trên gò má gầy còm của bà, nước mắt rơi nhoè mắt kính tôi mỗi khi nhìn thấy di ảnh của ông ngoại… Tôi bây giờ không còn là cô bé con lớp 8 mà đã là sinh viên năm 2, đã lớn lên nhiều, những việc trải qua đã nhiều hơn nhưng những kí ức về ông thì vẫn còn đó, vẹn nguyên như mới vừa xảy ra. Kí ức gọi nhau về trên những miền nhớ.